“Zorba Phật” – Con người mới, tôn giáo mới
“Zorba Phật” là khái niệm được Osho đưa ra
trong các bài thuyết giảng của mình vào năm 1978. Năm 1979, tại thính đường
Trang Tử, ông đã luận giải về khái niệm này.
Trong số các tác phẩm văn chương, Osho đặc biệt hứng thú với “Zorba –
Tay chơi Hy Lạp” của Azit Kazanzakis. Cuốn tiểu thuyết kể về tình bạn sâu sắc
giữa Zorba – đại diện cho chủ nghĩa khoái lạc Dionysus và nhân vật “tôi” – đại
diện cho chủ nghĩa lý tưởng của Apollo. Cuộc sống của Zorba là ăn chơi hoan lạc,
cuộc sống của nhân vật “tôi” là đau đáu với hành trình nội tâm với mong muốn một
ngày có thể viết một tác phẩm về Đức Phật. Đẩy cao hơn ý tưởng của cuốn tiểu
thuyết này, Osho đưa ra khái niệm về sự “khoái lạc tinh thần”: “Ăn uống, vui
chơi hưởng lạc và Thượng Đế”. Ông khẳng định: “Tôi muốn Phật Cồ Đàm (tức Thích Ca Mâu Ni)
và Zorba Hy Lạp gần nhau hơn – trở thành một… Mang trần tục và thiên đường đến
gần nhau hơn; hãy để Thượng Đế và thế giới của người có thể cùng nhau. Hãy để
cho cơ thể và linh hồn của bạn là một bài ca được ca lên cùng nhau, cơ thể và
linh hồn nhảy múa và hòa cùng nhau.”
Con người cần làm gì để không là nô lệ?
Con người trong nhiều ngàn năm lịch sử đều bị phân chia Thiện
– Ác, vật chất – tinh thần, tội đồ hoặc thánh nhân… dựa trên các chuẩn mực đạo
đức được đưa ra từ các nhà chính trị, các triết gia, các giáo phái. Từ đó tâm
trí con người bị phân tách thành hai nửa luôn đối kháng, hoặc thế này, hoặc thế
khác. Để tồn tại một cách an toàn trong xã hội, con người buộc phải lựa chọn phần
“Thiện” (theo tiêu chuẩn) và kìm hãm phần “Ác” (cũng theo một tiêu chuẩn nào
đó), nhưng những phần bị kìm hãm chưa bao giờ mất đi mà ngược lại, quay lại chi phối con người. Osho
cũng đã từng thuyết giảng: “Không thể lấy đá đè cỏ, vì chỉ cần nhấc đá ra, cỏ sẽ mọc
mạnh mẽ hơn”. Để kìm hãm thành công, con người trở nên khắc nghiệt,
không chỉ khắc nghiệt với bản thân mình, mà còn khắc nghiệt với người khác. Vui
đùa trở thành trò ngớ ngẩn trong xã hội cũ, nhưng Osho cho rằng những con người
đó mới là những kẻ “tâm thần phân liệt”, “ốm yếu, bệnh hoạn”, “bất nhân
tính”.
Đứa trẻ khi mới ra đời vốn không hề có khả năng phân biệt
theo các chuẩn mực xã hội. Nhưng ngay từ bé, cha mẹ, thày giáo, các chính trị
gia, thày tu, giới truyền thông… đã nhồi nhét những ý tưởng về sự phân chia này
vào tâm trí của đứa trẻ. Khi tâm trí bị xé đôi, đứa trẻ trở nên đầy tranh đấu
bên trong, vì vậy cuộc đời đứa trẻ bỗng trở thành một tấn bi kịch, và trong bi
kịch, con người không thể nhảy múa hoan ca. Khi lớn lên, những điều kìm nén
trong con người bắt đầu nổi loạn, và phần nổi loạn ấy lập tức bị lên án. Hệ thống
duy trì sự tồn tại của nó bằng cách phá hủy lòng tự trọng của con người, bằng
cách liên tục lên án “nửa kia” của con người: phương Tây cho rằng con người
sinh ra đã mắc tội tổ tông, phương Đông cho rằng con người sinh ra đã phải gánh
quả nghiệp của kiếp trước. Tất cả điều đó làm con người ghét chính mình.
Osho cho rằng mỗi con người đều có giá trị như Đức Phật, như
đấng Krishna, như Jesus Christ, như Mohamed… như bất cứ bậc giác ngộ nào khác.
Và chỉ khi tự yêu chính bản thân mình, tự tôn trọng chính bản thân mình, không
phán xét, không lên án… con người mới có thể quay vào bên trong để tìm hiểu thực
sự bản chất của tồn tại là gì.
Con người mới suy cho cùng là con người quay vào bên trong với
chính mình, không phải một cái tên, không phải cái mặt nạ của tính cách, càng
không phải tiền tài, danh tiếng, địa vị, ngoại hình… Con người mới này bắt đầu
hình thành từ việc thoát khỏi sự phân tách của tâm trí, vượt ra khỏi các chuẩn
mực nhị nguyên thông thường:
“Con người mới sẽ không là thế này hoặc thế kia; con người
mới phải là cả hai. Con người mới sẽ là thế tục và linh thiêng, trần tục và
thanh tao. Con người mới sẽ chấp nhận tính toàn bộ của mình và sẽ sống với điều
đó mà không có sự chia tách bên trong. Tính cao đẹp của con người mới sẽ không
đối nghịch với tính xấu xa, đạo đức của con người mới sẽ không có sự đối nghịch
nào. Con người mới sẽ vượt lên lưỡng cực, sẽ không bị tâm thần phân liệt. Với
con người mới sẽ xuất hiện thế giới mới, bởi vì con người mới sẽ nhận thức được
con đường khác về phẩm chất và người đó sẽ sống cuộc đời hoàn toàn khác, chưa từng
được sống trước đó.”
Con người này đang xuất hiện hàng ngày, đang dần trỗi dậy,
trong khi con người cũ đang hấp hối.
Tôn giáo mới – Tình yêu
Trong suốt nhiều thế kỷ, con người hoặc quá phụ thuộc vào
tôn giáo, hoặc quá chống đối tôn giáo, cực này hay cực kia, con người vẫn cứ là
cực đoan. Cho dù tuân phục hay chống đối, con người cũng thất bại trong nỗ lực
sống một cuộc sống thật sự.
“Thời khắc đã điểm bởi vì phương Đông đã thất bại, phương
Tây đã thất bại. Cần thiết một sự tổng hợp cao cả hơn để Đông và Tây có thể gặp
mặt, để tôn giáo và khoa học có thể gặp mặt. Tôn giáo thất bại bởi vì nó thuộc
thế giới bên kia và bỏ mặc thế giới này… bởi bỏ mặc thế giới này là bỏ mặc gốc
rễ của chính bạn. Khoa học đã thất bại bởi nó bỏ mặc thế giới bên trong và bạn
không thể bỏ mặc những bông hoa… Bây giờ chúng ta cần loài người mới mà khoa học
và tôn giáo trở thành hai khía cạnh của một con người. Và cây cầu sẽ trở thành
nghệ thuật. Chính vì vậy tôi nói rằng con người mới sẽ là huyền môn, thi ca và
khoa học. Giữa tôn giáo và khoa học thì chỉ nghệ thuật mới có thể là cầu nối –
thi ca, âm nhạc, điêu khắc…”
Quả đúng như những lời Osho nhận định, khi tôn giáo suy tàn
và khoa học lên ngôi, chỉ có nghệ thuật còn nhắc nhở con người về sự thần
thánh, cao cả và linh thiêng. Khi tôn giáo đem đến những ảo tưởng và khắc kỷ, sự
chối bỏ cái tôi cá nhân thì chính nghệ thuật đặt ra cho con người những hoài
nghi, nhắc nhở con người đứng dậy và đi tìm chân lý. Tôn giáo và khoa học là
hai thái cực, nghệ thuật nằm giữa và luôn giữ vị trí thăng bằng. Nghệ thuật giữ
vị trí của vị thần Vishnu – vị thần hoàn hảo, vị thần đứng giữa hai thái cực
Brahma (Sáng tạo) và Shiva (hủy diệt). Vishnu giữ vai trò duy trì thế giới, và
những bậc giác ngộ như Krishna, Mahavira, Thích Ca Mâu Ni đều được coi là các
hóa thân của thần Vishnu vĩ đại.
Nhưng nghệ thuật không thể tuôn trào nếu con người không thể
là tình yêu. Những con người sống như người máy không thể thấu hiểu nghệ thuật
và sáng tạo nghệ thuật. Chỉ khi con người chạm được vào phần thần thánh bên
trong, chạm được vào đứa trẻ thuần khiết, con người để tình yêu tuôn trào một
cách tự nhiên, nghệ thuật đích thực mới có thể nảy sinh và chỉ nghệ thuật ấy có
thể cứu rỗi được thế giới.
Osho nhấn mạnh, tình yêu này không phải sự chiếm hữu, mà là
sự hòa tan vào toàn bộ vũ trụ. Muốn vậy, trước tiên con người phải trở về chính
mình, phải nhận biết được bản ngã đích thực. Nếu không thể là chính mình, làm
sao bạn có thể biết cái gì đang tan biến giữa vô cùng? Trong sự hợp nhất cao cả
này, những đức hạnh siêu việt nảy sinh. Đức hạnh không phải đạo đức giả, không
phải sự lên án bản thân mình và cố gìn giữ giới luật, sự từ bi đến một cách tự
nhiên.
Khi con người có thể chạm vào phần linh thiêng nhất, khi con
người có thể hợp nhất với vũ trụ, thì mọi hạn định về tôn giáo như Hindu, Phật
giáo, Hồi giáo, Thiên Chúa giáo… trở nên không cần thiết. Tất cả các tôn giáo
đã được định danh ấy, chỉ là phần cạnh của Kim Tự Tháp. Mỗi con người đều có thể
tự đạt tới điều tối thượng mà không cần cầu xin, không cần tôn thờ, không cần
hành xác… chỉ đơn giản bằng hành động: quay lại bên trong và nhận biết chân
ngã.
Osho không bàn về chuyện có Thượng Đế hay không. Ông vẫn nhắc
đến “Thượng Đế” như một sự tổng thể và cho rằng chúng ta có thể gọi “Thượng Đế”
bằng bất cứ cái tên nào chúng ta muốn. Khi Đức Phật hòa nhập với vũ trụ, khi
Lão Tử hòa làm một với Đạo, khi Jesus khẳng định “Ta đã trở nên hoàn hảo như
Cha ta ở trên trời”, thì ta có thể thấy rõ ràng, mọi sự khác biệt đều chỉ là
ngôn ngữ. Thật tai họa cho “ngôn ngữ” – con dao hai lưỡi, nó đã làm con người
tranh cãi đến mức giết chóc nhau bao nhiêu thế kỷ cho một điều vốn dĩ chỉ là một.
Như đã nói ở phần trên, con người chỉ có thể thực sự là con
người nếu tự yêu chính bản thân mình. Một khi đã tự yêu chính bản thân mình,
con người không thể hành hạ và nghiêm khắc với bản thân. Trong tình yêu, âm nhạc
bắt đầu xuất hiện, lễ hội bắt đầu rộn rã. “Giữ nguyên như đứa trẻ nhỏ, vui
chơi, thế thì Thượng Đế sẽ không xa bạn là mấy. Ngài rất gần, trong bông hoa,
trong cây, trong dòng sông. Tất cả những điều cần đến là ngạc nhiên, trong trắng,
đôi mắt vui cười của trẻ thơ, không phải vẻ nghiêm trọng của học giả và của cái
gọi là thánh nhân, mà là niềm vui của người đang yêu”.
Không bị ràng buộc bởi hệ thống tôn giáo, đương nhiên Osho
cũng không đặt nặng nghi thức cầu nguyện. Cầu nguyện, với Osho, là “cuộc đối
thoại trái tim – trái tim với tồn tại”. Sự cầu nguyện không tới từ cái đầu với
lý trí, với sự đòi hỏi hay trao đổi, đó là sự giao tiếp giữa “một phần và toàn
bộ, giữa sóng và đại dương”. Bởi thế, không ai có thể dậy ai cầu nguyện, đó là
một phần tự nhiên, khi con người cảm thấy cần phải cầu nguyện, khi con người nhớ
tới điều tối thượng, vậy thì con người bắt đầu cầu nguyện.
Thiên đường không ở đâu xa, phúc lạc vốn nằm ở sâu thẳm bên
trong, không ai có thể cướp mất của chúng ta. Khi Adam và Eva ăn trái cấm, tâm
trí xuất hiện, sự phân chia xuất hiện, và con người mất đi phúc lạc. Quay trở về
với Thiên đường là hành trình bỏ rơi tâm trí và hướng vào bên trong. Mọi kinh
sách, triết lý, giới luật không thể đưa con người quay lại với Thiên Đường. Nỗi
sợ địa ngục chỉ đẩy con người rơi sâu hơn xuống địa ngục, niềm tin cũng không
thể đưa chúng ta lên Thiên đường. Osho cho rằng, với niềm tin không nhận biết,
con người vẫn “giữ nguyên là đạo đức giả”. Bởi niềm tin đó không có được bằng sự
hiểu biết thực sự, chỉ là vay mượn. Người có khả năng tìm kiếm được điều tối
thượng là người theo thuyết “bất khả tri”, là người có khả năng tĩnh lặng và không
nằm trong thái cực tin hay không tin. Người đó chỉ đơn giản là vui chơi, là mạo
hiểm, là khám phá trong nhận biết và đến một ngày chân lý sẽ nảy sinh từ bên
trong. Đó là sự giải thoát thật sự mà Phật giáo vẫn nói đến. Osho đã diễn giải
một cách hiện đại: “Tự do tuyệt vời xuất hiện. Khi bạn tự do khỏi sự ám ảnh của
ý nghĩa, bạn tự do thực sự”.
Con người mới xuất hiện
Trong nhiều thế kỷ, con người đã mất nhiều công sức để khám
phá thế giới bên ngoài, và con người bắt đầu lạc lối. Lịch sử triết học cổ đại
phương Tây thường ghi nhận sự xuất hiện của Socrates với việc định nghĩa các
khái niệm về đời sống đã làm nền tảng cho xã hội Tây Phương, nhưng một vấn đề
được đặt ra quan trọng hơn đã bị lãng quên, đó là bản thể luận với các câu hỏi:
Bản chất của chúng ta là gì, bản chất của thế giới thực tại ta đang sống là gì?
Parmenides (600-500 TCN) là người đưa ra những vấn đề ấy đầu tiên trong số các
triết gia Hy Lạp cổ đại. Trước đó, các triết gia chỉ quan tâm đến nguồn gốc của
vũ trụ và con người. Sau Parmenides, các triết gia bắt đầu đào sâu vào câu hỏi
này và chúng ta có Democritus, có Pythagoras… và đặc biệt là có Epicurus với chủ
nghĩa khoái lạc. Trong thời kỳ lên ngôi của nhà thờ Kito giáo, các giáo sĩ đề
cao Plato và chỉ gìn giữ các tác phẩm của Plato, họ đã thiêu hủy rất nhiều công
trình mà Epicurus và các triết gia thuộc trường phái của ông để lại. Trải qua
suốt đêm trường Trung Cổ, rồi đến Khai Sáng, các nhà khoa học mới bắt đầu đặt
ra câu hỏi về bản chất của con người, bản chất của thế giới thực tại. Học thuyết
Darwin đưa ra lập luận rằng con người tiến hóa từ những giống loài thấp hơn, là
thể tiến hóa gần nhất là từ vượn người. Học thuyết này nhanh chóng lan rộng và
được phương Tây chấp thuận, lấy làm nền tảng cho nhiều học thuyết chính trị. Học
thuyết này đề cao mặt vật chất của con người đến mức con người bắt đầu quên dần
đi sự thần thánh, quên mất rằng con người có linh hồn và chìm sâu vào tham vọng.
Suốt hơn 1 thế kỷ sau thuyết Darwin, đa số loài người vẫn tin vào sự tiến hóa
này và chấp nhận bản chất ấy của chúng ta. Trên thực tế, các chính trị gia cần
sự đảm bảo của học thuyết này để duy trì xã hội.
Còn Osho thì viết: “Con người phải học và con người phải nghiên cứu về chính
mình bởi vì xã hội không quan tâm đến điều đó; thực tế, xã hội chống lại điều
đó. Nó ngăn chặn theo mọi cách có thể, cho nên con người chưa bao giờ biết tình
yêu là gì, bởi vì khi con người biết tình yêu thì toàn bộ cấu trúc xã hội nhìn
thật buồn cười, thật lố bịch. Khi bạn đã biết vẻ đẹp của tình yêu bạn sẽ không
bao giờ tham vọng; trong khi đó xã hội tồn tại bởi tham vọng. Khi bạn đã một lần
nếm trải tình yêu, bạn sẽ không còn bị ám ảnh bởi tiền bạc và quyền lực nữa. Đó
là sự ám ảnh của con người chưa biết tình yêu. Đó là sự thay thế tình yêu – tiền
bạc và quyền lực nữa. Tất cả những điều
đó là sự thay thế nghèo nàn, bởi vì bạn lỡ sự nuôi dưỡng thực sự, bây giờ bạn
tìm kiếm sự nuôi dưỡng giả tạo”.
Sự ra đời của con người mới chỉ có được trong sự tái sinh của
mỗi chúng ta, giống như Jesus Christ được tái sinh vậy: lần sinh đầu tiên là sự
sống cơ thể; lần tái sinh, chúng ta sinh ra như linh hồn với sự hài hòa trong
cơ thể. Và sự tái sinh này chỉ có thể xảy ra bởi chính chúng ta, những người sẵn
sàng đạp bỏ cách sống nô lệ, cách sống người máy, siêu việt khỏi tâm trí. Khi
trở về với chân ngã, hưởng thụ cuộc sống trên thế giới này bằng ý thức của linh
hồn, bằng ý thức Thượng Đế, con người mới có thể làm chủ được chính mình. Và với
người có thể làm chủ chính mình, họ không bao giờ thống trị người khác, như Đức
Phật từ bỏ ngai vị vua chúa, như Jesus Christ khẳng định rằng “Ta không làm
hoàng đế ở nước của con người”. Vì tôn trọng bản thân mình, họ có khả
năng tôn trọng người khác; vì yêu bản thân mình, họ có khả năng yêu người khác;
vì họ đã là toàn bộ, họ không còn hứng thú với chiến tranh và chiếm đoạt. Từ
đó, cộng đồng lý tưởng trong mơ như Utopia mới có thể hình thành.
Đó là một cộng đồng như thế nào? Một cộng đồng không chia
thái cực, không thần tượng cũng không lên án bất cứ điều gì; một cộng đồng tôn
trọng cả sự khác biệt và sự đồng nhất; một cộng đồng không phân chia tôn giáo,
quốc gia, sắc tộc; một cộng đồng mà đàn ông và đàn bà không còn tranh chấp về
quyền, họ là bạn. Đó là cộng đồng của những kẻ vô định, không tự trói buộc mình
vào bất cứ định dạng gì vì họ đã đạt tới số 0 cũng như đạt tới sự hoàn hảo.
Đánh giá của Book Hunter
Trong các bí giáo cổ, đã từng có các thày tu Sufi thực hiện
sự hợp nhất với vũ trụ thông qua sự khoái lạc tinh thần bằng nhảy múa và thi
ca. Osho là người chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các thày tu Sufi này. Nhưng điều
khiến ông trở nên khác biệt đó là ông cũng đề cao khoa học với tính hoài nghi của
nó. Osho không khuyên răn con người từ bỏ cuộc sống, cũng không khuyến khích
con người gắn kết với cuộc sống, ông khẳng định con người nên yêu cuộc sống.
Việc đưa ra điểm nhìn mới cho tôn giáo của tương lai là tình
yêu và tính sáng tạo thật sự là bước tiến mới trong lịch sử tôn giáo. Tôn giáo
của ông không phải là một thứ cao đạo và xa vời, không thuyết giảng, không lễ
nghi, tôn giáo ấy đưa con người trở về đúng là con người, để con người không phải
đeo mặt nạ. Tuy nhiên, đáng tiếc, con người vốn thích đeo mặt nạ, mặt nạ khiến
con người thấy an toàn hơn. Với hơn 2500 năm sống trong sợ hãi, liệu bao nhiêu
con người dám dũng cảm đối mặt với đám đông không chỉ bên ngoài xã hội mà còn
đám đông trong tâm trí của chính mình như Krishna, Đức Phật, Zarathustra, Jesus
Christ…
Hơn thế nữa, việc cộng đồng lý tưởng được Osho đưa ra có lẽ
sẽ chẳng bao giờ tồn tại ở thế giới vật chất. Có lẽ ông đang nhắc nhở chúng ta
về một cõi xa xăm nào đó, khi con người không còn ở trong dạng vật chất nữa.
Tuy nhiên, qua đó, ta có thể thấu hiểu một điều rằng: Sẽ không bao giờ có một
xã hội lý tưởng nếu con người còn tham vọng, còn sự phân tách, còn sự khắc kỷ;
sẽ không bao giờ có tự do thật sự khi con người còn bị ám ảnh bởi quá nhiều mục
đích.
Bởi vậy, Osho tự nhận mình chưa bao giờ được sinh ra cho nên
sẽ không bao giờ chết, ông chỉ dạo chơi qua thế giới này để nhắc nhở chúng ta một
điều đơn giản: Hãy quay về với bên trong mình, chúng ta là một phần của Thượng
Đế, chúng ta là ngôi đền linh thiêng nhất, từng khoảnh khắc cuộc đời của chúng
ta là sự cầu nguyện từ trái tim… Và cuối cùng, tôi xin mượn đôi lời của một
thày tu Sufi: “Khi bạn tìm kiếm Thượng Đế, bạn thấy bản thân mình; khi bạn tìm
chính mình, bạn lại bắt gặp Thượng Đế.”
Hà Thủy Nguyên, 23/08/2013 (Book Hunter)