Osho - Kinh Kim Cương
Chương 1. Cảnh giới niết bàn ấy
Kinh Kim Cương của Phật Gautama
Đây là những gì tôi đã được nghe vào thời ấy. Phật ngụ tại
thành Sravasti. Buổi sáng sớm ông ấy mặc trang phục, khoác áo cà sa, cầm bình
bát đi vào thành Sravasti khất thực. Khi trở về, ăn xong, ông ấy xếp gọn y bát,
rửa chân và ngồi vào chỗ dành cho ông ấy, hai chân xếp chéo, thân ngay thẳng, mắt
chăm chú nhìn về phía trước. Lúc ấy các tu sĩ, từng nhóm đông, tiến tới cung
kính đảnh lễ Phật xong đi vòng ba lần qua bên phải ông ấy rồi ngồi xuống.
Lúc ấy tôn giả Subhuti (Tu Bồ Đề) cũng đang ngồi giữa hội
chúng. Ông đứng lên, vắt một vạt áo lên vai, quì gối phải xuống đất, chắp hai
tay hướng về Phật mà thưa rằng, ‘Bạch Thế Tôn, thật là kì diệu, hỡi Diệt Độ, vô
cùng kì diệu sự hộ trì mà Như Lai đã ban cho các vị bồ tát, những sinh linh thượng
đẳng! Vậy, Bạch Thế Tôn, hành giả đi theo con đường của bồ tát phải làm sao để
an trụ tâm, làm sao để hàng phục tâm?’
Sau những lời này Phật bảo Subhuti: ‘Vậy, Subhuti, lắng
nghe cho rõ và chăm chú!’
‘Hành giả đi theo con đường của bồ tát cần phải nghĩ rằng,
“Tất cả các loài chúng sinh trong vũ trụ, dù nhiều vô lượng, ta phải dẫn dắt họ
đến niết bàn, nơi chẳng còn để lại cái gì ở phía sau. Tuy nhiên, mặc dù vô lượng
vô biên chúng sinh đã được dẫn dắt vào niết bàn, nhưng thật ra không có chúng
sinh nào được dẫn vào niết bàn cả.” Và tại sao? Bởi vì nếu vị bồ tát còn có ý
nghĩ về “chúng sinh” thì không thể gọi là “bồ tát”. Tại sao vậy? Bởi vì, nếu một
ai đó còn có ý nghĩ về ta, về người, về linh hồn, về mạng sống, thì không phải
là bồ tát.”
Tôi yêu Phật Gautam, vì đối với tôi, ông ấy là cốt lõi tinh
hoa của tôn giáo. Ông ấy không phải là người sáng lập Phật giáo - Phật giáo chỉ
là sản phẩm phụ - nhưng ông ấy là người bắt đầu cho một loại tôn giáo hoàn toàn
khác trên khắp thế giới. Ông ấy là người sáng lập ra tôn giáo phi tôn giáo. Ông
ấy đã đề xuất không phải là tôn giáo mà là tinh thần tôn giáo. Và đây là thay đổi
triệt để vĩ đại trong lịch sử tâm thức con người.
Trước Phật đã từng có nhiều tôn giáo, nhưng chưa bao giờ có
tinh thần tôn giáo thuần khiết. Con người chưa chín muồi. Với Phật, nhân loại
đã đến tuổi trưởng thành. Thực ra, không phải tất cả mọi người đều trưởng
thành, điều đó đúng, nhưng Phật đã chỉ ra con đường; Phật đã mở cánh cửa vô
môn. Phải có thời gian nhân loại mới hiểu được thông điệp sâu sắc như thế.
Thông điệp của Phật là sâu sắc nhất mà loài người chưa từng bao giờ nhận được.
Chưa từng có một ai làm được công trình như Phật đã làm, cách thức mà ông ấy đã
làm. Chưa từng có một ai biểu lộ được hương thơm ngát thuần khiết như thế.
Những nhà sáng lập tôn giáo khác, những bậc chứng ngộ khác
đã có những nhượng bộ đối với thính giả của họ. Còn Phật không bao giờ khoan
nhượng, và đó là thuần khiết của ông ấy. Ông ấy chẳng quan tâm tới điều bạn có
thể hiểu được tới đâu, ông ấy chỉ quan tâm đến chân lí là gì. Và ông ấy giãi bầy
chân lí mà chẳng lo gì liệu bạn có hiểu được hay không. Một mặt, làm như vậy có
vẻ quá nghiêm khắc, nhưng mặt khác nó lại chứng tỏ từ bi vô hạn.
Chân lí như thế nào thì phải được nói ra đúng như thế. Ngay
khi bạn nhân nhượng, khoảnh khắc bạn hạ thấp chân lí cho vừa với trình độ tầm
thường của tâm thức con người, chân lí liền mất hết linh hồn, nó thành nông cạn,
nó trở thành thứ chết. Bạn không thể hạ thấp chân lí xuống cho vừa với trình độ
con người; con người phải được nâng lên tới cấp độ chân lí. Đó chính là công
trình vĩ đại của Phật.
Kinh Kim Cương đã được nói ra cách nay hai mươi nhăm thế kỉ,
vào một ngày nào đó, sáng sớm - giống như sáng hôm nay. Một nghìn hai trăm năm
mươi tu sĩ đã có mặt. Việc ấy xảy ra tại thành Sravasti. Đó đã từng là một trong
những thành phố lớn thời đó. Từ ‘Sravati’ có nghĩa là ‘Thành Diễm lệ’. Nó đã là
một trong những thành phố diễm lệ nhất của Ấn Độ cổ đại; lúc ấy thành phố có
chín trăm nghìn gia đình. Ngày nay nó đã hoàn toàn biến mất. Chỉ còn lại một
cái làng rất rất nhỏ bé - thậm chí bạn cũng sẽ không tìm thấy tên của nó trên bất
kì bản đồ nào; thậm chí tên của nó cũng đã biến mất. Bây giờ nơi đó được gọi là
Sahet-Mahet. Không thể nào tin được rằng một thành phố lớn đến thế đã từng tồn
tại ở đấy. Cuộc sống là như vậy đấy - mọi vật luôn đổi thay. Thành phố trở
thành nghĩa địa, nghĩa địa trở thành bãi chợ... cuộc sống là thay đổi liên tục.
Phật chắc phải đã yêu thành phố Sravasti này, vì ông ấy đã
trải qua ở đó hai mươi nhăm trong số bốn mươi nhăm năm thuyết pháp. Chắc ông ấy
đã yêu mến dân chúng của thành này. Trình độ tâm thức của họ chắc phải rất cao.
Những bản kinh tuyệt vời nhất của Phật hầu hết được giảng ở Sravasti.
Bản kinh này - Kinh Kim Cương - cũng đã được giảng tại
Sravasti. Tên tiếng Phạn của kinh này là Vajrachchedika Prajnaparamita Sutra.
Nó có nghĩa là "sự hoàn hảo của trí huệ sắc bén như cú sét đánh, như lưỡi
tầm sét." Nếu bạn cho phép, Phật có thể chém đứt bạn tựa như cú sét đánh.
Ông ấy có thể chặt đứt đầu bạn. Ông ấy có thể giết chết bạn và giúp bạn tái sinh.
Vị phật phải là cả hai - vừa là kẻ sát nhân, vừa là người mẹ.
Một mặt ông ấy phải giết chết bạn và mặt khác ông ấy làm sinh thành con người mới
trong bạn. Con người mới chỉ có thể sinh ra được khi con người cũ đã bị phá huỷ.
Chỉ từ tro tàn của con người cũ mà con người mới được sinh ra. Con người là
loài phượng hoàng. Loài ‘phượng hoàng’ thần thoại này không chỉ là chuyện thần
thoại; nó là biểu tượng. Nó đại diện cho con người. Chim phượng hoàng đó không
có ở đâu khác ngoại trừ trong con người. Con người là sinh linh phải chết đi để
được tái sinh.
Đó cũng là điều Jesus đã nói với Nicodemus. Nicodemus là một
giáo sư, một nhà thông thái, một giáo sĩ Do Thái, một thành viên của ban kiểm
soát ngôi đền lớn ở Jesuralem. Vào một đêm tối trời, ông ta tìm đến gặp Jesus.
Ban ngày ông ta không có đủ dũng khí để làm điều này. Ông ta sợ mang tai tiếng:
ông ta vốn là một nhân vật có tiếng và được xã hội kính trọng. Đến thăm một kẻ
thuyết giảng lang thang sao?... đến chỗ một kẻ đang bị tất cả các giáo sĩ Do
Thái và các nhà thông thái căm ghét sao?... đến chỗ một kẻ du thủ du thực hay
giao du với bọn trộm cắp, bọn bợm rượu và bọn gái điếm sao?... Nhưng có cái gì
đó bên trong thôi thúc Nicodemus đến gặp Jesus. Có thể trong khi đi lễ nhà thờ,
ông ta nhìn thấy Jesus đi qua. Ông ta có lẽ đã cảm thấy cái gì đó sâu trong tiềm
thức của mình hướng về con người này. Ông ta không thể cưỡng lại chính mình.
Một đêm nọ, khi mọi người đều đi vắng và bọn học trò đã ngủ,
ông ta đã đến gặp Jesus và hỏi, "Tôi phải làm gì để có thể vào được vương
quốc của Thượng đế?"
Và Jesus đáp, "Chẳng thể làm gì được trừ phi ông chết
đi. Nếu ông chết đi, chỉ thế thì ông mới có thể vào được vương quốc của Thượng
đế. Con người hiện tại của ông phải chết đi, chỉ thế thì con người thực sự bên
trong của ông mới sinh ra được."
Bản ngã phải chết đi để bản thể tinh tuý nổi lên bề mặt. Đây
là ý nghĩa chính của Prajnaparamita Vajrachchhedika. Nó chặt đứt như lưỡi tầm
sét. Nó có thể tiêu diệt bạn bằng một nhát chém. Đây là một trong những bài giảng
quan trọng nhất của Phật. Hoà điệu với nó đi.
Nhưng trước khi chúng ta vào lời kinh, tôi sẽ giải thích cho
bạn một vài điểm để bạn dễ hiểu hơn.
Phật Gautam đã bắt đầu một chất tâm linh không bị kìm nén,
không lí tưởng hoá. Đó là hiện tượng rất hiếm hoi. Loại tâm linh thông thường,
đầy rẫy trong vườn, đều rất kìm nén. Nó phụ thuộc vào kìm nén. Nó không làm biến
đổi con người, nó chỉ làm con người què quặt đi. Nó không giải phóng con người,
nó làm con người thành nô lệ. Nó là đàn áp, nó là xấu xa.
Nghe những lời này của Thomas à Kempis, tác giả cuốn ‘Bắt
chước Christ’. Ông ta viết "Bạn càng dùng bạo lực với bản thân mình, bạn
càng được nâng cao lên trong hồng ân của Thiên Chúa. Chẳng có con đường nào
khác ngoài sự hành xác mình mỗi ngày. Biện pháp tốt nhất, hoàn hảo nhất, là tự
khinh ghét bản thân mình." Trong mọi thời đại, đã có hàng nghìn thánh nhân
sẽ đồng ý với Thomas à Kempis. Còn Thomas à Kempis là một người bệnh hoạn.
Hay như tu sĩ người Pháp Bossuet nói, "Thiên hạ đáng
nguyền rủa! Thiên hạ đáng nguyền rủa! Hàng nghìn lần đáng nguyền rủa!" Tại
sao? Tại sao Thiên hạ đáng nguyền rủa? Cuộc sống phải bị nguyền rủa. Những người
đó đã từng nghĩ cứ như là Thượng đế chống lại cuộc sống, cứ như là cuộc sống chống
lại Thượng đế. Cuộc sống chính là Thượng đế. Không có đối kháng nào, thậm chí
không có tách bạch nào. Đấy không phải là những sự vật phân biệt, mà là những
tên gọi khác nhau của cùng một thực tại.
Nhớ điều này: Phật không kìm nén. Nếu bạn gặp những nhà sư
Phật giáo kìm nén, nhớ lấy - họ chẳng hiểu gì về Phật cả. Họ đã đem cái bệnh hoạn
của riêng mình vào giáo huấn của ông ấy. Còn Phật không phải là nhà ý thức hệ.
Ông ấy chẳng đưa ra ý thức hệ nào, vì mọi ý thức hệ đều xuất phát từ tâm trí.
Và nếu ý thức hệ xuất phát từ tâm trí, chúng không thể đưa bạn vượt ra ngoài
tâm trí được. Không một ý thức hệ nào có thể trở thành cây cầu để vượt ra ngoài
tâm trí được. Mọi ý thức hệ đều phải bị vứt bỏ, chỉ thế thì tâm trí mới bị vứt
bỏ.
Phật chẳng tin vào lí tưởng nào cả - vì tất cả các lí tưởng
đều tạo ra căng thẳng và xung đột trong con người. Chúng chia rẽ, chúng tạo ra
đau khổ. Bạn là một thứ và chúng muốn bạn trở thành cái gì đó khác. Giữa hai điều
này bạn bị day dứt, giằng xé. Lí tưởng gây ra đau khổ. Lí tưởng tạo ra tinh thần
phân liệt. Càng có nhiều lí tưởng, con người càng bị nhiều trạng thái tinh thần
phân liệt; họ sẽ bị chia chẻ. Chỉ một tâm thức không ý thức hệ mới có thể tránh
được chia chẻ. Và nếu bạn bị chia chẻ, làm sao bạn có thể hạnh phúc được cơ chứ?
Làm sao bạn có thể im lặng? Làm sao bạn có thể biết tới một chút an bình, thanh
thản?
Con người ý thức hệ liên tục đấu tranh với bản thân mình. Từng
khoảnh khắc đều có xung đột. Người đó sống trong xung đột, người đó sống trong
lẫn lộn, vì người đó không thể nào quyết định được mình thực sự là ai - là lí
tưởng hay là thực tại? Người đó không thể tin cậy vào chính mình được, người đó
trở nên sợ chính mình, người đó mất tự tin. Và một khi con người đánh mất đi
lòng tự tin, người đó cũng đánh mất luôn cả lòng tự hào. Thế thì người đó sẵn
sàng trở thành nô lệ cho bất kì ai - cho bất kì tu sĩ nào, bất kì chính khách
nào. Thế thì người đó chỉ sẵn sàng, đợi rơi vào trong chiếc bẫy nào đó.
Tại sao người ta trở thành đạo đồ hay tín đồ? Tại sao người
ta bị mắc bẫy? Tại sao người ta ở dưới quyền lực của một Joseph Staline hay một
Adolf Hitler hay một Mao Trạch Đông? Tại sao trước hết có điều đó? Họ đã trở
nên run rẩy thế; lẫn lộn về ý thức hệ đã làm họ bị rung chuyển tận gốc rễ. Bây
giờ họ không thể nào đứng theo ý riêng của mình; họ cần ai đó để dựa vào. Họ
không thể đi theo ý riêng, họ không biết mình là ai. Họ cần ai đó bảo cho họ rằng
họ là thế này thế nọ. Họ cần được trao cho căn cước. Họ đã quên mất cái ta của
mình, quên bản thể của mình.
Adolf Hitler rồi Joseph Staline rồi Mao Trạch Đông sẽ cứ còn
tới nữa, chừng nào và khi nào con người còn chưa chịu buông bỏ tất cả các ý thức
hệ. Và nhớ lấy, khi tôi nói mọi ý thức hệ, tôi ngụ ý là tất cả mọi ý thức hệ.
Tôi không phân biệt giữa những ý thức hệ cao cả và những ý thức hệ ít cao cả
hơn. Tất cả mọi ý thức hệ đều nguy hiểm. Thực tế những ý thức hệ cao cả còn
nguy hiểm hơn, bởi chúng có quyền năng hấp dẫn hơn, chúng mang tính thuyết phục
hơn. Nhưng ý thức hệ như thế lại là bệnh tật, hay nói chính xác hơn, nó là sự
không thoải mái - bởi vì bạn trở thành hai: lí tưởng và bạn. Và bạn vừa là con
người hiện tại bị lên án, bạn cũng vừa là con người không được ngợi ca. Bây giờ
bạn lâm vào rắc rối. Sớm hay muộn bạn sẽ thần kinh, rồi mắc bệnh tâm thần, rồi
cái gì nữa.
Phật đã đem tới lối sống không kìm nén, không ý thức hệ nữa.
Đó là lí do tại sao ông ấy không nói về Thượng đế. Ông ấy không nói về cõi trời,
ông ấy không nói gì về tương lai cả. Ông ấy không cho bạn bất kì cái gì để bấu
víu; ông ấy lấy đi tất cả mọi thứ của bạn. Ông ấy lấy đi cả cái ta của bạn. Ông
ấy cứ liên tục lấy đi mọi thứ và thậm chí cuối cùng ông ấy còn tước bỏ cả ý niệm
về cái ta, cái tôi, bản ngã. Ông ấy chỉ để lại trống rỗng thuần khiết phía sau.
Và điều này là rất khó khăn.
Điều này là rất khó khăn, vì chúng ta đã hoàn toàn quên mất
cách cho. Chúng ta chỉ biết cách lấy. Chúng ta cứ lấy đủ mọi thứ. "Tôi lấy
kì thi", rồi "tôi lấy vợ" và thậm chí "tôi lấy giấc ngủ
trưa". Bạn cứ thế mà lấy. Bạn còn lấy cả giấc ngủ trưa nữa - điều đâu có thể
lấy được: bạn phải tuân theo nó. Giấc ngủ đến chỉ khi bạn giao phó mình cho nó.
Ngay cả đến vợ, đến chồng, bạn cũng cứ lấy. Bạn không có kính trọng. Vợ đâu phải
là tài sản. Bạn có thể lấy ngôi nhà - làm sao bạn có thể lấy được vợ hay chồng?
Nhưng ngôn ngữ của chúng ta phơi bầy tâm trí chúng ta. Chúng ta không biết cách
cho - không biết cách nhường nhịn, cách buông bỏ, cách để cho mọi việc xảy ra.
Phật lấy đi mọi lí tưởng, toàn bộ tương lai, và chung cuộc,
ông ấy lấy nốt cái cuối cùng mà chúng ta rất khó từ bỏ - ông ấy lấy đi chính
cái ta của bạn, chỉ để lại sau trống rỗng thuần khiết, hồn nhiên, trong trắng.
Trống rỗng trong trắng đó ông ấy gọi là niết bàn. Niết bàn không phải là mục
tiêu, nó chỉ là trống rỗng của bạn. Khi bạn đã vứt bỏ hết những gì bạn đã tích
trữ, khi mà bạn đã chịu ngừng tất cả mọi hành động tích góp, khi bạn thoát khỏi
tính ki cóp bủn xỉn và bám víu, đột nhiên trạng thái trống rỗng ấy xuất hiện.
Nó vẫn có đó từ bao giờ.
Hakuin nói có lí, "Từ ngày đầu mới sinh ra, tất cả mọi
người đều là những vị phật." Cái trống rỗng vẫn có đó. Bạn đã gom góp tích
chứa bao nhiêu thứ lỉnh kỉnh, khiến cho cái trống rỗng ấy không còn thấy được nữa.
Cũng hệt như là trong nhà bạn, bạn có thể cứ tích chứa mọi thứ: thế thì bạn chẳng
còn thấy chỗ trống, thế thì không còn chỗ chứa nào nữa. Rồi đến một hôm mà ngay
cả đi vào trong nhà cũng trở thành khó khăn; sống trong nhà cũng trở thành khó
khăn vì không còn chỗ nữa. Nhưng cái không gian này vẫn chẳng đi đâu cả. Nghĩ về
nó, thiền về nó đi. Không gian vẫn chẳng đi đâu cả; bạn đã tích chứa quá nhiều
thứ đồ đạc nào là ti vi, đài, dàn âm thanh, đàn piano và một lô một lốc các thứ
khác nữa - nhưng không gian chẳng đi đâu cả. Bỏ đồ đạc đi, không gian có đó; nó
bao giờ cũng có đó. Nó bị đồ đạc che khuất, nhưng nó không bị phá huỷ. Nó không
hề rời khỏi căn phòng, cho dù chỉ một khoảnh khắc. Cái trống rỗng bên trong của
bạn, niết bàn của bạn, cái không của bạn cũng như vậy đấy.
Phật không cho bạn niết bàn như một lí tưởng. Phật giải
thoát thay vì ép buộc. Phật dạy bạn cách sống - không hướng theo mục tiêu nào,
không phải đạt tới cái gì, mà được niềm phúc lạc ở đây và bây giờ - cách sống
trong nhận biết. Không phải là nhận biết định cho bạn cái gì đó đâu. Nhận biết
không phải là phương tiện để đạt tới bất kì cái gì; bản thân nó là mục đích -
nó đồng thời là cả phương tiện và mục đích. Giá trị của nó luôn nguyên vẹn.
Phật không giảng cho bạn về thế giới bên kia. Điều này cần
phải được hiểu. Con người thuộc vào thế giới này; còn các tu sĩ luôn giảng về
thế giới bên kia. Thế giới bên kia cũng không phải thật là thế giới khác gì cho
lắm, nó không thể thế được, bởi vì nó chỉ là mô hình được cải tiến của cùng thế
giới này thôi. Bạn có thể tạo đâu ra được cái thế giới bên kia ấy? - bạn chỉ biết
có thế giới này. Bạn có thể cải tiến, bạn có thể tô điểm cho thế giới bên kia tốt
hơn, bạn có thể loại đi vài điều xấu ở đây và bạn có thể thay thế đôi điều mà bạn
nghĩ sẽ đẹp hơn, nhưng nó vẫn cứ là sáng tạo xuất phát từ kinh nghiệm của bạn về
thế giới này. Cho nên cái thế giới bên kia của bạn cũng không thể khác biệt gì
nhiều lắm, không thể khác được. Đấy là sự liên tục. Nó xuất phát từ tâm trí của
bạn, nó là trò chơi của trí tưởng tượng.
Bạn phải có những phụ nữ kiều diễm ở đó, dĩ nhiên đẹp hơn những
người bạn có ở đây. Ở đó bạn sẽ tìm thấy những thú vui giống như ở đây, có thể
là thường xuyên hơn, ổn định hơn, nhưng cũng vẫn chỉ là những thú vui thế thôi.
Ở đó bạn sẽ nếm những món ăn ngon lành hơn, hấp dẫn hơn - nhưng bao giờ cũng chỉ
là những món ăn. Bạn sẽ sống trong những ngôi nhà, có thể là bằng vàng - nhưng
đấy cũng chỉ là những ngôi nhà. Bạn sẽ lặp lại toàn bộ mọi thứ một lần nữa.
Đọc các kinh sách xem cách người ta mô tả cõi trời và bạn sẽ
phát hiện đó là thế giới này, được cải thiện thêm. Đôi chút tô điểm thêm đây
đó, nhưng dẫu sao nó cũng không phải là thế giới bên kia. Đó là lí do tại sao
tôi nói rằng thế giới bên kia của các tôn giáo khác không phải là thế giới bên
kia cho lắm. Nó là thế giới này được phóng chiếu vào tương lai. Nó được sinh ra
từ kinh nghiệm về thế giới này. Nơi đó sẽ không có đau khổ, nghèo khó, bệnh tật,
què quặt, đui mù, điếc lác. Cái gì bạn không thích ở đây sẽ không có ở đó, cái
gì bạn yêu thích sẽ có rất nhiều, nhưng chẳng có gì mới cả.
Tâm trí không thể quan niệm cái gì thật mới. Tâm trí không
có khả năng quan niệm ra cái mới. Tâm trí sống trong cái cũ, tâm trí là cái cũ.
Cái mới không bao giờ xảy ra qua của tâm trí. Cái mới chỉ xuất hiện khi nào tâm
trí ngừng hoạt động, khi tâm trí không còn kiểm soát bạn, khi tâm trí bị dẹp
qua một bên. Cái mới chỉ xảy ra khi tâm trí không còn can thiệp vào.
Nhưng tất cả các kinh sách đều nói về cõi trời - và cõi trời
hay nơi cực lạc, thiên quốc, đều chẳng là gì khác ngoài cùng một câu chuyện. Dù
nó được in trên giấy ảnh tốt hơn, với mực hảo hạng và in ấn tuyệt vời, với những
hình minh hoạ đầy mầu sắc, thì câu chuyện vẫn như thế; nó không thể nào khác được.
Phật không nói về thế giới bên kia hay thế giới khác. Ông ấy
đơn giản dạy bạn cách sống ở đây, trong thế giới này; cách sống tỉnh táo, luôn
có ý thức, chăm chú để cho không cái gì chen vào cái trống không của bạn; để
cho cái trống rỗng bên trong của bạn không bị tha hoá, không bị đầu độc; để cho
bạn có thể sống ở đây mà vẫn còn không bị ô uế, ô nhiễm; để cho bạn có thể sống
trong thế gian còn thế gian không trong bạn.
Một tâm linh luôn luôn đặt trọng tâm vào cõi bên kia thì nhất
định là độc đoán, huỷ hoại, bạo ngược, tóm lại là bệnh hoạn. Tâm linh của Phật
có hương vị khác cho nó - hương vị vắng bặt lí tưởng, hương vị vắng bặt tương
lai, hương vị vắng bóng sự tồn tại của thế giới khác. Đó là đoá hoa ở đây và
bây giờ. Nó không đòi hỏi gì cả. Tất cả đều đã được hoàn thành. Nó đơn giản trở
nên tỉnh táo hơn cho nên bạn có thể thấy được nhiều hơn, bạn có thể nghe được
nhiều hơn, bạn có thể hiện hữu nhiều hơn.
Nhớ lấy, bạn chỉ hiện hữu theo cùng tỉ lệ với việc bạn có ý
thức. Nếu bạn muốn hiện hữu nhiều hơn, ý thức nhiều hơn đi. Ý thức truyền đạt
hiện hữu. Vô ý thức lấy mất đi trạng thái hiện hữu. Khi bạn say rượu, bạn mất
hiện hữu. Khi bạn ngủ say, bạn mất hiện hữu. Chẳng lẽ bạn chưa từng quan sát điều
đó sao? Khi bạn tỉnh táo, bạn mang phẩm chất khác - bạn định tâm, bắt rễ. Khi bạn
tỉnh táo, bạn cảm nhận sự vững chắc trong hiện hữu của mình, nó gần như hữu
hình. Khi bạn vô ý thức, như khi chìm vào giấc ngủ, như khi buồn ngủ, cảm giác
của bạn về sự hiện hữu kém đi. Nó bao giờ cũng tỉ lệ với mức độ có ý thức.
Cho nên toàn bộ thông điệp của Phật là có ý thức. Và không
vì lí do nào khác, chỉ với mục tiêu có ý thức - vì ý thức truyền đạt cho hiện hữu,
ý thức tạo ra bạn. Và một bạn như thế là khác biệt với bạn đang đấy đến mức bạn
không thể tưởng tượng nổi. Một bạn mà cái ‘tôi’ đã biến mất, không còn cả ý niệm
về cái ta tồn tại, không còn gì để xác định bạn nữa... trống rỗng thuần khiết,
trống rỗng tuyệt đối, vô hạn.
Điều này Phật gọi là trạng thái thiền, sammasamadhi, trạng
thái chân thiền, khi bạn chỉ còn tất cả một mình. Nhưng nhớ lấy, một mình không
phải là đơn độc. Bạn đã bao giờ nghĩ về cái từ tuyệt vời này chưa ‘alone’, một
mình? Nó có nghĩa là tất cả một. Nó gồm hai chữ ghép lại: tất cả (all) và một
(one). Trong một mình bạn trở thành một với tất cả.
Một mình không có cái gì của đơn độc trong nó cả. Bạn không
đơn độc khi bạn một mình. Bạn một mình nhưng không đơn độc - vì bạn là một với
tất cả; làm sao bạn có thể đơn độc được? Bạn không thiếu vắng người khác, đúng.
Không phải là bạn đã quên họ, không phải là bạn không cần họ, không phải vì bạn
không chăm nom về họ, không. Bạn không nhớ đến người khác vì bạn là một với họ.
Mọi phân biệt giữa một và tất cả đều mất đi. Một đã trở thành tất cả, và tất cả
đã trở thành một. Từ tiếng Anh alone này có vẻ đẹp kì diệu.
Phật nói sammasamadhi, chân thiền, là một mình. Chân thiền
là tuyệt đối một mình đến mức bạn là một với tất cả. Để tôi giải thích điều này
cho bạn. Nếu bạn trống rỗng, các biên giới của bạn sẽ biến mất, bởi lẽ cái trống
rỗng không thể có biên giới. Cái trống rỗng chỉ có thể là vô hạn. Cái trống rỗng
không thể có trọng lượng nào, cái trống rỗng không thể có mầu sắc nào, cái trống
rỗng không thể có bất kì tên tuổi nào, cái trống rỗng không thể có bất kì hình
tướng nào. Khi bạn là trống rỗng, làm sao bạn phân chia mình với người khác được?
- bởi vì bạn không có mầu sắc nào, bạn không có tên tuổi nào, bạn không có hình
tướng nào, bạn không có biên giới nào. Làm sao bạn tạo ra được bất kì phân biệt
nào? Khi bạn trống rỗng, bạn là một với tất cả. Bạn đã tan chảy trong sự tồn tại;
sự tồn tại đã hội nhập với bạn. Bạn không còn là hòn đảo nữa; bạn đã trở thành
lục địa mênh mông của bản thể.
Toàn bộ thông điệp của Phật được cô đọng trong một từ này -
sammasamadhi, chân thiền. Chân thiền là gì và giả thiền là gì? Nếu thiền nhân
còn tồn tại thì đấy là giả thiền. Nếu thiền nhân mất đi trong thiền thì đấy là
chân thiền. Chân thiền đem bạn tới cái trống rỗng và một mình.
Bản kinh này, toàn bộ bản kinh này nói về cách trở thành rỗng
không hoàn toàn. Đó là món quà cơ bản của Phật tặng cho thế giới.
Đây là những gì tôi đã được nghe vào thời ấy.
Các tạng kinh này đều được ông Ananda, đại đệ tử của Phật nhớ
lại. Và một điều cần phải được ghi nhớ: tất cả các kinh đều mở đầu bằng câu,
"Đây là những gì tôi đã được nghe."
Sau khi Phật qua đời, tất cả các đệ tử của ông ấy đã họp lại
và thu thập tất cả những gì Phật đã nói trong bốn mươi lăm năm ấy. Ananda là
người duy nhất được sống liên tục trong suốt bốn mươi lăm năm ấy bên cạnh Phật.
Ông ấy là người chân thực nhất có thể tin cậy được. Những người khác đã nghe,
nhưng họ đã nghe lại từ người khác nữa. Đôi khi họ đã ở cùng Phật và đôi khi họ
lại không ở cùng Phật. Duy nhất có ông Ananda đã sống như một cái bóng.
Vậy là ông Ananda kể lại, hừ? - nhưng điều tuyệt diệu là ở
chỗ ông ấy không bao giờ nói rằng "Phật đã nói điều này." Ông ấy chỉ
đơn giản nói "Đây là những gì tôi đã được nghe." Khác biệt thật lớn
lao. Ông ấy không nói "Phật đã nói điều này" vì ông ấy nói "Làm
sao tôi nói được điều Phật đã nói? Tất cả những gì tôi có thể nói là thế này -
đó là điều tôi đã được nghe. Điều Phật đã nói chỉ có ông ấy mới biết. Điều ông ấy
ngụ ý, chỉ có ông ấy mới biết. Tất cả những gì tôi có thể nhớ được là những điều
tôi đã nghe thấy. Khả năng của tôi có hạn. Ông ấy có thể đã muốn nói điều gì đó
khác. Tôi có thể đã quên một vài lời, tôi có thể đã thêm một vài lời theo ý
riêng của mình."
Đây là vô cùng trung thực. Ông ấy cũng có thể tuyên bố rằng
"Đây là điều Phật đã nói. Tôi đã có mặt, tôi là nhân chứng mắt thấy tai
nghe." Mà ông ấy quả là nhân chứng mắt thấy tai nghe thật; không ai có thể
phủ nhận điều đó. Nhưng hãy xem đức khiêm cung của con người này: ông ấy nói
"Đây là những gì tôi đã được nghe. Phật đã nói và tôi đã nghe... tôi chỉ
có thể kể lại điều tôi đã nghe. Điều ấy có thể đúng, điều ấy có thể không đúng.
Tôi có thể đã xen thêm vào, tôi có thể đã diễn giải, tôi có thể đã quên mất vài
điều, điều gì đó của tâm trí riêng tôi có thể đã len vào trong nó - tất cả những
điều ấy có thể lắm chứ. Tôi không phải là người đã chứng ngộ." Thật vậy,
ông Ananda khi ấy còn chưa chứng ngộ, cho nên ông ấy nói, "Đây là tất cả
những gì tôi có thể nói, tôi có thể bảo đảm được."
Đây là những gì tôi đã được nghe vào thời ấy. Phật ngụ tại
thành Sravasti.
Buổi sáng sớm ông ấy mặc trang phục, khoác áo cà sa, cầm
bình bát đi vào thành Sravasti khất thực. Khi trở về, ăn xong, ông ấy xếp gọn y
bát, rửa chân và ngồi vào chỗ dành cho ông ấy, hai chân xếp chéo, thân ngay thẳng,
mắt chăm chú nhìn về phía trước...
Điều này sẽ làm bạn ngạc nhiên. Khi ông Ananda nói, ông nhắc
đến từng chi tiết rất nhỏ bé. Biết làm sao được - cần phải hết sức chăm chú khi
nói về vị phật. Hử? Ngay cả điều này nhiều lần ông ấy đã nhắc lại - những chi
tiết nhỏ bé thế.
Buổi sáng sớm ông ấy mặc trang phục, khoác áo cà sa, cầm
bình bát đi vào thành Sravasti khất thực...
Ông Ananda theo Phật như cái bóng, cái bóng lặng lẽ chỉ quan
sát ông ấy. Chỉ quan sát ông ấy cũng đã là phúc lành rồi. Và ông ấy quan sát mọi
thứ.
Khi trở về, ăn xong, ông ấy xếp gọn y bát, rửa chân và ngồi
vào chỗ dành cho ông ấy...
Lần đầu tiên khi kinh Phật được dịch sang ngôn ngữ phương
Tây, các dịch giả có đôi chút phân vân - tại sao cứ nhắc đi nhắc lại mãi như vậy?
Cứ lặp đi lặp lại những điều như thế; lần nữa lại như thế, lần nữa lại sự lải
nhải này. Tại sao những điều nhỏ bé này lại được kể lại? Họ không thể hiểu được
điều đó. Họ nghĩ rằng đây là sự lặp lại, rằng đây là sự lặp lại rất không cần
thiết; nó chẳng cần chút nào. Tất cả những cái ấy phỏng có ích gì? Nhưng họ đã
bỏ lỡ. Điều ông Ananda đang nói là ở chỗ Phật chú ý đến việc nhỏ cũng như việc
lớn. Đối với vị phật thì không việc gì nhỏ và cũng chẳng việc gì lớn. Chỉ có việc.
Khi ông ấy cầm bình bát, ông ấy tỏ lòng tôn kính với nó
ngang với bất kì Thượng đế nào. Khi ông ấy khoác áo cà sa hay mặc y phục, ông ấy
chăm chú thế; ông ấy tuyệt đối tỉnh táo, ông ấy không máy móc. Khi bạn mặc quần
áo, bạn làm như cái máy. Bạn biết cách mặc một cách máy móc, vậy thì chăm chú
vào việc mặc phỏng có ích gì? Tâm trí bạn chạy theo cả nghìn hướng. Khi bạn tắm
- bạn không thật tôn trọng việc tắm. Bạn không ở đó; bạn ở đâu đâu khác. Bạn
ăn, nhưng bạn không tôn kính thức ăn. Bạn không có đó, bạn đơn giản cứ thế mà tọng
thức ăn vào bên trong mình. Bạn cứ làm mọi việc theo thói quen, một cách máy
móc. Nhưng khi Phật làm một việc, ông ấy hoàn toàn có đó; ông ấy không ở đâu
khác.
Khi trở về, ăn xong, ông ấy xếp gọn y bát, rửa chân và ngồi
vào chỗ dành cho ông ấy, hai chân xếp chéo, thân ngay thẳng, mắt chăm chú nhìn
về phía trước...
Những chi tiết nhỏ nhặt ấy đáng được kể lại, bởi vì chúng
nêu ra phẩm hạnh của phật tính. Từng khoảnh khắc vị phật đều sống trong nhận biết.
Điều ông ấy làm chẳng liên quan; từng khoảnh khắc ông ấy đều dồn sự chú ý của
mình vào bất kì cái gì đang làm. Khi làm một động tác, toàn bộ ông ấy là động
tác ấy. Khi ông ấy mỉm cười, toàn bộ ông ấy là nụ cười. Khi ông ấy nói, toàn bộ
ông ấy là lời nói. Và khi ông ấy im lặng, toàn bộ ông ấy là im lặng.
Ngắm vị phật, bản thân việc đấy đã là phúc lành - cách ông ấy
bước, cách ông ấy ngồi, cách ông ấy cử động, cách ông ấy nhìn bạn. Mỗi khoảnh
khắc đều là một khoảnh khắc toả sáng nhận biết. Đó là lí do tại sao ông Ananda
đã tường trình. Nhất định phải có im lặng lớn lao bao trùm khi Phật trở về, xếp
gọn y bát, rửa chân, ngồi vào chỗ đã chuẩn bị sẵn cho ông ấy, thân thẳng, rồi tập
trung toàn bộ sự chú ý phía trước mặt. "Tập trung sự chú ý phía trước mặt"
này là gì? Đó là một phương pháp đặc biệt của Phật, gọi là anapansatiyoga - chú
ý vào việc hít vào và thở ra. Đó là ý nghĩa của việc tập trung sự chú ý vào
phía trước.
Khi Phật làm một việc nào đó, chẳng hạn như mặc áo, thế thì
ông ấy chăm chú vào động tác ấy. Khi ông ấy bước, ông ấy chăm chú vào việc bước.
Khi ông ấy chẳng làm gì cả, ông ấy chú ý đến hít vào và thở ra. Nhưng ông ấy
chăm chú; ngay cả trong khi ông ấy ngủ ông ấy cũng chăm chú.
Một hôm Ananda hỏi Phật... Ông ấy đã sống với Phật mười năm
và ngạc nhiên khi thấy Phật giữ nguyên một tư thế suốt cả đêm. Tay Phật để ở
đâu thì Phật giữ nguyên nó ở đó suốt cả đêm. Ông ấy phải đã nhìn nhiều lần, phải
đã lén nhìn trong đêm. Hừ, việc ấy cũng đáng lắm chứ? - xem Phật ngủ như thế
nào? Và ông ấy đã ngạc nhiên và phân vân là Phật giữ cùng một tư thế - cùng một
tư thế cả đêm. Ông không nén nổi tò mò. Một hôm ông ấy nói, "Tôi thật đã
làm một việc không phải, ban đêm tôi đã thức dậy và nhìn thầy, tôi không nên
làm việc như thế, nhưng tôi tò mò về thầy và tôi phân vân. Thầy vẫn còn trong
cùng một tư thế. Vậy thầy ngủ hay thầy vẫn liên tục giữ nhận biết của
mình?"
Còn Phật nói, "Giấc ngủ diễn ra trong thân thể, ta vẫn
còn tỉnh táo về nó. Bây giờ giấc ngủ đang tới, bây giờ nó đã tới, bây giờ nó đã
buông xuống, bây giờ thân thể đang được thảnh thơi, tứ chi được thảnh thơi -
nhưng ta vẫn duy trì sáng chói nhận biết."
Thiền là việc tiếp diễn hai mươi bốn giờ. Không phải là bạn
thực hành một lần trong ngày rồi bạn chấm dứt với nó. Nó phải trở thành hương vị
của bạn, nó phải trở thành bầu không khí của bạn. Nó nên bao quanh bạn dù bạn ở
bất kì đâu, dù bạn đang làm bất kì điều gì.
... mắt chăm chú nhìn về phía trước.
Lúc ấy các tu sĩ, từng nhóm đông tiến tới cung kính đảnh lễ
Phật xong đi vòng ba lần qua bên phải ông ấy rồi ngồi xuống.
Hỏi Phật một câu hỏi cũng cần có thái độ nào đó, chỉ thế thì
bạn mới nhận được câu trả lời. Không phải là Phật sẽ không trả lời. Bạn có thể
hỏi một cách rất hỗn xược - Phật vẫn trả lời, nhưng bạn sẽ không nhận được câu
trả lời đó. Cho nên vấn đề không phải là ở chỗ chỉ khi bạn cung kính thì Phật mới
đưa ra câu trả lời. Đằng nào Phật cũng đưa ra câu trả lời, nhưng nếu bạn không
rất cung kính, rất khiêm tốn, tiếp nhận, nữ tính, bạn sẽ bỏ lỡ câu trả lời.
Cách đặt câu hỏi của bạn sẽ xác định rằng bạn có thể nhận được câu trả lời hay
không.
Bạn hỏi như thế nào, trong tâm trạng nào... Bạn có dễ tiếp nhận
không? Hay bạn chỉ tò mò thôi? Bạn có hỏi câu hỏi từ tri thức đã tích luỹ của
mình hay câu hỏi của bạn là hồn nhiên? Phải chăng bạn đặt câu hỏi chỉ vì muốn
kiểm tra xem người này có biết hay không? Bạn đang hỏi từ trạng thái của tri thức
hay từ trạng thái của việc không biết? Bạn có khiêm tốn, buông xuôi không? Bạn
có sẵn sàng đón nhận món quà nếu nó được trao cho bạn không? Bạn có cởi mở, bạn
có đón chào nó không? Bạn có nhận nó từ trái tim mình không? Bạn có cho phép nó
trở thành hạt mầm trong tim bạn không? Đặt câu hỏi cho vị phật không phải là đặt
câu hỏi cho giáo sư. Cần phải có phẩm chất nào đó trong bạn; chỉ thế thì bạn mới
được phúc lành từ việc đó.
Các tu sĩ, từng nhóm đông tiến tới cung kính đảnh lễ Phật
xong đi vòng ba lần qua bên phải ông ấy rồi ngồi xuống.
Việc đi ba vòng đó tượng trưng cho ba thân. Vòng thứ nhất là
đảnh lễ thân vật lí, thân mà ta có thể nhìn thấy được, cái sẵn có cho các giác
quan. Thân vật lí của Phật cũng rất đẹp; nó là bệ thờ nơi điều thiêng liêng cư
ngụ. Cho nên vòng thứ nhất là việc chào mừng thân thứ nhất, thân vật lí. Vòng
thứ hai là đảnh lễ thân phúc lạc, thân thứ hai. Còn vòng thứ ba là đảnh lễ thân
phật, tức là thân chân lí.
Ba vòng ấy cũng tượng trưng cho cái gì đó khác nữa. Trong Phật
giáo có ba nơi cư ngụ, ba nơi trú ẩn. "Tôi cư ngụ Phật, tôi cư ngụ tăng,
tôi cư ngụ Pháp". Ba vòng này là tượng trưng cho chúng nữa.
Khi một người tới hỏi Phật điều gì đó, người đó phải cư ngụ.
Người đó phải mang tâm trạng này - rằng "mình hài hoà với Phật", rằng
"mình sẵn sàng rung động với cùng chiều dài sóng". "Mình cư ngụ
nơi Phật. Ông ấy là chỗ trú ẩn của mình, mình đến với ông ấy như đệ tử, mình đến
với ông ấy với hiểu biết rằng mình không biết gì, mình đến với ông ấy trong hồn
nhiên, mình cúi mình trước ông ấy, mình nhìn nhận rằng ông ấy biết còn mình
không biết - cho nên mình sẵn sàng tiếp nhận tất cả những gì ông ấy cho là mình
xứng đáng được trao."
"Mình cư ngụ vào tăng đoàn, vào cộng đồng" - bởi
vì vị phật chỉ là đại diện cho tất cả chư phật quá khứ và tương lai. Vị phật là
cánh cửa mở ra hướng tới toàn thể chư Phật. Bạn có thể gọi chư Phật là các
Christ hay Krishna; điều đó chẳng khác biệt gì. Đó chỉ là những tên gọi khác
nhau theo các tín ngưỡng khác nhau.
Vậy nơi trú ẩn thứ nhất là vị phật ở trước mặt bạn. Nơi trú ẩn
thứ hai là trong tất cả chư phật, tăng đoàn, cộng đồng tất cả chư phật - quá khứ,
hiện tại và tương lai. Và nơi trú ẩn thứ ba là Dhamma - Pháp - tức cái bản thể
tinh tuý làm cho một người là vị phật. Nghệ thuật thức tỉnh đó là Pháp, tôn
giáo.
Lúc ấy tôn giả Subhuti cũng đang ngồi giữa hội chúng.
Subhuti là một trong những đại đệ tử của Phật. Ông đứng lên,
Ananda nói - và lần nữa ông lặp lại toàn bộ mọi việc, vì Subhuti không còn là
người bình thường nữa. Ông ấy đã gần là vị phật, ngay bên lề của điều đó. Ông ấy
có thể trở thành vị phật vào mọi khoảnh khắc. Cho nên Ananda lại lặp lại.
Ông đứng lên, vắt một vạt áo lên vai, quì gối bên phải xuống
đất, chắp hai tay hướng về Phật mà thưa rằng: ‘Bạch Thế Tôn, thật là kì diệu, hỡi
Diệt Độ, vô cùng kì diệu sự hộ trì mà Như Lai đã ban cho các vị bồ tát, những
sinh linh thượng đẳng!
Vậy, Bạch Thế Tôn, hành giả đi theo con đường của bồ tát phải
làm sao để an trụ tâm, làm sao để hàng phục tâm?’
Subhuti đã gần đạt tới phật tính. Ông ấy là bồ tát. Bồ tát
có nghĩa là người đã sẵn sàng trở thành vị phật, người đã tới rất gần điều đó;
chỉ một bước nữa là người đó sẽ thành vị phật. Bồ tát nghĩa là tinh hoa bồ đề,
bản thể bồ đề: đã vượt lên được chín mươi chín bậc - và đến bậc thứ một trăm là
ông sẽ bay hơi. Nhưng bồ tát là người cố gắng lưu lại thêm một chút ở bậc thứ
chín mươi chín, để có thể cứu giúp mọi người bởi lòng từ bi của ông ấy. Vì rằng,
đến bậc thứ một trăm ông ấy sẽ vượt ra ngoài... Gate gate paragate parasamgate
bodhisvaha! (Yết đế, yết đế, Balayết đế, Balatăng yết đế bồ đề ta bà ha!) - Vượt
ra, vượt ra, vượt ra ngoài, vượt tất cả ra ngoài, giác ngộ reo vui! Thế thì ông
ấy đã vượt ra ngoài, ông ấy sẽ tan biến trong cõi xa xăm, nơi cõi giới bên kia.
Thế thì sẽ rất khó cho ông ấy thiết lập mối liên hệ tiếp xúc với loài người ở bờ
bên này.
Giúp đỡ lớn nhất thường xuất phát từ những người ở bậc thứ
chín mươi chín. Tại sao vậy? Bởi vì họ chưa chứng ngộ. Họ biết cách thức của những
người chưa chứng ngộ. Họ biết ngôn ngữ của những người chưa chứng ngộ. Họ vẫn
đang sống cùng những người này, nhưng, theo một nghĩa khác, họ đã vượt được
chín mươi chín phần trăm qua bờ bên kia. Một phần trăm còn lại nối họ, bắc cầu
họ liên hệ với thế gian.
Vậy bồ tát là người rất gần với trạng thái phật, nhưng vẫn cố
gắng lưu lại nơi bến bờ này lâu thêm chút nữa để giúp mọi người. Ông ấy đã đạt
tới; ông ấy muốn chia sẻ sự đạt tới của mình. Ông ấy đã biết; ông ấy muốn chia
sẻ điều mình đã biết. Người khác còn loạng choạng trong bóng tối; ông ấy muốn
chia sẻ ánh sáng của mình với họ, tình yêu của mình với họ.
Subhuti là bồ tát. Ananda nói về Subhuti theo cùng cách như
ông ấy đã nói về Phật: Ông đứng lên... Bạn hình dung một chút, quán tưởng bồ
tát đứng dậy. Ông ấy hoàn toàn nhận biết. Ông ấy không nhổm dậy như người máy.
Từng hơi thở đều được nhận biết, hoàn toàn nhận biết. Không cái gì xảy ra mà
không có nhận biết. Ông ấy quan sát kĩ. Tín ngưỡng Ki tô giáo gọi là tập trung
tư tưởng, Phật giáo gọi là sammasati - chăm chú đúng đắn. Chăm chú hay tập
trung tư tưởng, được nhận biết, sống trong chăm chú: sammasati - không làm dù
chỉ một động tác vô ý thức.
Ông đứng lên, vắt một vạt áo lên vai, quì gối bên phải xuống
đất, chắp hai tay hướng về Phật mà thưa rằng...
Nhớ lấy, ngay cả bồ tát, người đã tới rất gần việc trở thành
phật, vẫn cung kính cúi mình trước Phật với lòng biết ơn tràn đầy.
‘Bạch Thế Tôn, thật là kì diệu, hỡi Diệt Độ...
Diệt Độ có nghĩa là người đã đạt tới bờ bên kia. Ông Subhuti
còn chưa rời bờ bên này, Phật thì đang ở bờ bên kia. Ông Subhuti đã đi đến cái
hiểu đó: ông có thể thấy bờ bên kia, ông có thể thấy Phật trên bờ bên kia. Hỡi
"Diệt Độ..."
Từ ‘diệt độ’ này có nhiều nghĩa. Một: người đã đạt tới bờ
bên kia. Nghĩa khác: người đã đạt tới điều tối thượng của thiền. Phật đã nói rằng
có tám bậc dẫn tới thiền tối thượng. Người đạt tới bậc thứ tám được gọi là ‘diệt
độ’. Nhưng điều ấy là một. Người đã đạt tới samadhi, samadhi tối thượng, là người
đã tới bờ bên kia, người đó không còn nữa - đó là điều được ngụ ý bởi ‘diệt độ’.
Đã diệt mất, hoàn toàn diệt mất. Ông ấy không còn nữa, ông ấy chỉ là trống rỗng.
Cái ta đã tan biến, bay biến.
Hỡi Diệt Độ, vô cùng kì diệu sự hộ trì mà Như Lai đã ban cho
các vị bồ tát, những sinh linh thượng đẳng!’
‘Như Lai’ là danh từ Phật học để gọi "người đã Diệt Độ".
Ông Subhuti thưa với Phật, "Thật kì diệu sự hộ trì của Phật! Lòng từ bi của
Phật đối với chúng tôi thật là vô biên mặc dù chúng tôi thậm chí không xứng
đáng."
‘Bạch Thế Tôn, thật là kì diệu, hỡi Diệt Độ, vô cùng kì diệu
sự hộ trì mà Như Lai đã ban cho các vị bồ tát, những sinh linh thượng đẳng!
Vậy, Bạch Thế Tôn, hành giả đi theo con đường của bồ tát...
người đã nguyện lưu lại thêm ít lâu tại bờ bên này - ... phải làm sao để an trụ
tâm, làm sao để hàng phục tâm?’
Ông ấy đang hỏi gì vậy? Ông ấy đang hỏi một câu hỏi mà có thể
chẳng liên quan gì đến nhiều người trong các bạn, bởi nó trở thành có liên quan
chỉ khi bạn đã trở thành bồ tát. Nhưng một ngày nào đó, ngày này hay ngày khác,
bạn cũng sẽ trở thành bồ tát. Ngày này hay ngày khác câu hỏi này sẽ liên quan đến
bạn. Vậy tốt hơn hết nghĩ về nó đi, tốt hơn hết thiền về nó đi.
Ông ấy nói, "Những người đã quyết định trở thành bồ
tát, làm sao họ có thể an trụ ở đó?" Ông ấy đang nói "Sức hấp dẫn của
bờ bên kia mạnh đến thế, sức hút của bờ bên kia lớn đến thế - làm sao họ có thể
trụ lại ở bờ bên này? Chúng tôi muốn cứu giúp mọi người, nhưng làm sao đây? Sức
hút của bờ bên kia mạnh biết bao, lực hút mạnh biết bao - bờ bên kia đang vẫy gọi.
Xin thầy dạy chúng tôi làm cách nào để có thể ở lại đây, làm thế nào để chúng
tôi có thể bắt rễ lại bờ bên này. Chúng tôi đã trở nên bị bật gốc rễ; trong thế
giới này chúng tôi không còn rễ nào nữa. Chín mươi chín phần trăm rễ đã biến mất."
Nghĩ về một cây - chín mươi chín phần trăm rễ đã bị chặt đi;
chỉ còn lại một phần trăm rễ ở đó. Cái cây đang hỏi, "Làm sao tôi có thể đứng
vững bây giờ được? Tôi sắp đổ rồi, và tôi biết rằng nếu tôi có thể trụ lại được
thêm ít lâu nữa thì tôi có thể giúp đỡ chúng sinh được rất nhiều, và họ rất cần
sự giúp đỡ. Tôi quả đang cần - xin thầy giúp tôi. Bây giờ người khác cũng đang
cần - tôi phải giúp đỡ." Đó là cách duy nhất đệ tử có thể trả ơn cho thầy.
Không có cách nào khác. Thầy đã giúp bạn; thầy chẳng cần sự giúp đỡ nào - làm
sao trả ơn thầy đây? phải làm gì? Điều duy nhất phải làm là giúp đỡ ai đó, người
vẫn còn đang loạng choạng, mò mẫm trong bóng tối. Tất cả những gì thầy đã làm
cho bạn, làm những điều đó cho người khác, thế là bạn đã đền ơn đáp nghĩa cho
thầy được rồi.
Ông ấy hỏi "Làm sao trụ lại đây?" - thật là khó, gần
như không thể nào làm được - và "Làm sao tiến tới, làm sao để bắt đầu cứu
giúp mọi người?" - vì điều đó nữa cũng gay go. Giờ đây chúng tôi hiểu rằng
tất cả những khổ của họ đều là giả. Giờ đây chúng tôi hiểu rằng họ đang trải
qua các cơn ác mộng; khổ của họ là không thật. Bây giờ chúng tôi biết họ thấy sợi
dây thừng mà tưởng là rắn nên họ sợ. Bây giờ rất khó để giúp cho những người
này. Điều đó thật buồn cười. Và chúng tôi biết rằng họ cần sự giúp đỡ, vì chúng
tôi nhớ lại quá khứ của chính mình. Chúng tôi đã run sợ, khóc than, kêu la tuyệt
vọng. Chúng tôi biết chúng tôi đã đau khổ biết bao nhiêu, mặc dầu bây giờ chúng
tôi biết rằng tất cả những đau khổ ấy chỉ tựa như giấc mộng, nó là ảo tưởng, nó
là maya."
Nghĩ mà xem: nếu bạn biết rằng người khác chỉ nói toàn điều
vô nghĩa, rằng người đó chẳng có vết thương nào...
Một ngày nọ, người ta đưa đến chỗ tôi một anh chàng. Anh ta
bị ám ảnh bởi ý nghĩ là bằng cách nào đó hai con ruồi đã chui vào dạ dầy anh ta
- vì anh ta ngủ há mồm. Mà hai con ruồi thì cứ bay vòng vo liên tục trong dạ dầy
anh ta. Một cách tự nhiên, nếu chúng đã bay vào thì chúng cứ bay vòng vèo mãi.
Anh chàng vô cùng lo lắng, bồn chồn, đứng ngồi không yên, hết đi bên nọ lại
sang bên kia và nói, "Chúng đang ở đây, giờ chúng lại qua bên kia rồi!"
Anh ta gần phát điên.
Anh ta đã đi khám đủ mọi bác sĩ nhưng chẳng ai giải quyết được
gì. Bọn họ đều cười và bảo, "Đó chỉ là do anh tưởng tượng ra thôi."
Nhưng nói với ai đó rằng nỗi đau của anh ta chỉ là do tưởng tượng thì không
giúp ích gì cho anh ta cả, vì anh ta đang đau. Đối với bạn, điều đó có thể là
do tưởng tượng, nhưng đối với anh ta, dù cái đau là tưởng tượng hay thật, anh
ta cũng vẫn đang đau. Bạn gọi nó là gì thì cũng chẳng khác biệt.
Thế là tôi sờ nắn dạ dầy anh ta và nói, "À, chúng có đấy."
Anh ta phấn khởi. Anh ta chạm chân tôi và bảo "Thầy là người duy nhất đấy...
Tôi đã đi khám đủ loại bác sĩ - đối chứng, vi lượng - tất cả họ đều ngu! Họ cứ
khăng khăng mãi một điều. Tôi bảo họ, "Nếu các ông không có thuốc gì, thì
cứ nói thẳng rằng các ông không có thuốc đi, sao lại cứ bảo là tôi tưởng tượng?
Bây giờ mới gặp thầy đây. Thầy thấy những con vật ấy chứ?"
Tôi nói, "Tôi thấy rõ lắm, chúng ở đây này. Tôi chuyên
chữa những bệnh như thế này". Tôi nói, "Anh đến gặp tôi là đúng người
đấy. Nghề của tôi mà - tôi chuyên giải quyết những vấn đề không có trong thực tế.
Tôi là chuyên gia trong việc giải quyết những vấn đề vốn không có." Tôi lại
nói tiếp, "Nằm xuống và nhắm mắt lại. Tôi phải che mắt anh, rồi tôi sẽ bắt
chúng ra cho. Anh há mồm ra, tôi sẽ dùng thần chú bí mật để thu hút chúng
ra."
Anh ta rất thích thú. Anh ta nói, "Phải làm như thế chứ!"
Tôi bịt mắt anh ta lại, bảo anh ta há mồm ra, còn anh ta nằm thẳng cẳng, há mồm,
thích thú chờ những ruồi chết tiệt ấy chui ra. Tôi vội vàng vào nhà chạy đi tìm
bắt hai con ruồi.
Thật không dễ dàng vì tôi chưa từng bắt ruồi bao giờ. Nhưng
rồi tôi cũng làm được, khi anh ta mở mắt ra và nhìn thấy hai con ruồi trong cái
lọ, anh ta nói, "Thầy cho tôi xin cái lọ này nhé. Tôi sẽ đi tìm cái bọn
ngu ngốc kia." Anh ta khỏi hẳn. Nhưng thật rất khó mà giúp được những người
như anh chàng này, rất khó, vì bạn biết rằng khó khăn của họ là hoàn toàn giả tạo.
Ông Subhuti bạch Phật, "Bạch Thế Tôn, trước hết xin cho
chúng tôi biết, làm sao để trụ lại nơi này, khi mà hầu hết các rễ của chúng tôi
đã mất? Chúng tôi không còn thuộc về thế giới này nữa. Sự gắn bó của chúng tôi
đã mất rồi – chúng là gốc rễ. Và làm sao để tiếp tục tiến tới, để làm việc? -
vì bây giờ chúng tôi biết rằng tất cả điều này chỉ là vô nghĩa; mọi người đang
tưởng tượng ra tất cả những phiền não của mình. Và rồi, làm sao để hàng phục
tâm?"
Ý ông muốn nói gì? Bởi vì bồ tát không có những ý nghĩ thông
thường - không phải là những ý nghĩ bạn có. Bây giờ chỉ còn một ý nghĩ thôi, và
ý nghĩ đó là về bờ bên kia..., và bờ bên kia thì liên tục lôi kéo. Cánh cửa đã
mở rồi, bạn có thể đi vào trong niềm vui nhất, thế mà bạn lại tự kìm mình lại
ngoài cửa - và cửa thì đã mở.
Trước hết bạn đã đi tìm cái cửa ấy suốt trong nhiều kiếp sống;
rồi bạn đã không ngừng gõ và gõ vào cánh cửa trong nhiều kiếp sống - và giờ đây
nó đã mở. Thế mà Phật nói, "Ông chờ đã. Chờ tại cửa ấy. Rất nhiều chúng
sinh đang yêu cầu sự cứu giúp của ông." Tự nhiên, trong bạn nhen nhóm lên
ước muốn mãnh liệt để bước vào trong, vượt qua cửa này. Đó là những gì ông
Subhuti đang hỏi.
Phật bảo, ‘Vậy, Subhuti, ông chú ý lắng nghe và chăm chú!
Hành giả đi theo con đường của bồ tát cần phải nghĩ rằng...’
Chữ ‘nghĩ’ ở đây có vẻ không hợp lắm theo bản dịch tiếng
Anh. Chữ Phạn là chittopad. Người ta phải khởi lên một ý định, một quyết định;
người ta phải tạo ra một quyết định, quyết tâm lớn - chittopad - theo cách này:
‘Tất cả các loài chúng sinh trong vũ trụ, dù nhiều vô lượng,
ta phải dẫn dắt họ đến niết bàn...’
"Không phải một hay hai, Su bhuti, không phải một hay hai,
mà là tất cả chúng sinh: đàn ông, đàn bà, con vật, chim chóc, cây cỏ, đất đá. Tất
cả mọi sinh linh trong vũ trụ. Người ta phải khởi lên một quyết tâm là "Ta
sẽ dẫn dắt tất cả họ vào trong niết bàn."
‘...nơi chẳng còn để lại cái gì ở phía sau.
Tuy nhiên, mặc dù vô lượng, vô số, vô biên chúng sinh đã được
dẫn dắt vào niết bàn, nhưng thật ra không có chúng sinh nào được dẫn vào niết
bàn’
Cả điều này nữa, bạn cũng phải nhớ, bạn không được quên. Bằng
không, trong khi dẫn dắt những kẻ khác, bạn sẽ lại rơi vào trong dốt nát lần nữa.
Tất cả chúng sinh đều phải được dẫn dắt sang bờ bên kia, và bạn cũng phải nhớ rằng
những khổ đau phiền não của họ đều là giả tạm, cho nên phương thuốc của bạn
cũng là giả nốt. Và bạn phải nhớ rằng họ không có cái ta; bạn cũng không có cái
ta. Cho nên đừng quên; đừng nghĩ rằng bạn đang cứu giúp họ, rằng bạn là người
giúp đỡ vĩ đại, thế này thế nọ, bằng không bạn sẽ lại vấp ngã. Lần nữa bạn sẽ bắt
rễ ở bờ bên này.
Cho nên có hai điều cần phải nhớ. Bạn phải trụ lại ở bờ bên
này với một quyết tâm lớn bằng không bạn sẽ bị hấp dẫn qua bờ bên kia, nhưng bạn
cũng không thể bắt rễ lại ở đây bằng không thì bạn cũng chẳng có ích gì. Bạn sẽ
tự huỷ hoại mình, bạn sẽ lại rơi vào thế giới mộng ảo lần nữa.
‘Tại sao?
Bởi vì nếu vị bồ tát còn có ý nghĩ về một ‘chúng sinh’ thì
không thể gọi là bồ tát. Tại sao vậy?
Bởi vì, nếu một ai đó còn có ý nghĩ về ta, về người, về linh
hồn, về mạng sống, thì không phải là bồ tát.’
"Vậy Subhuti, ông nhớ cho hai điều. Một: ông phải dẫn dắt
tất cả chúng sinh sang bờ bên kia, mà ông vẫn phải nhớ rằng không ai là chúng
sinh cả - cả ông lẫn họ. Tất cả các bản ngã đều giả tạo và ảo tưởng. Luôn nhớ
điều này và tiếp tục với quyết tâm lớn. Giúp đỡ mọi người đi tới bờ bên kia đi.
Họ đã ở đó rồi; ông chỉ cần làm cho họ tỉnh táo và nhận biết. Nhưng đừng lầm lạc,
đừng trở thành người cứu giúp. Chỉ hai điều này thôi."
Trong lời kinh này, Phật nhiều lần nhắc đến phương tiện hay
con đường của bồ tát. Tôi mong muốn tất cả các bạn đều trở thành những vị bồ
tát.